Scholar Hub/Chủ đề/#bê tông xi măng/
Bê tông xi măng là loại vật liệu xây dựng được sản xuất từ các thành phần chính là xi măng, cát, sỏi và nước. Khi pha trộn với nhau theo tỉ lệ nhất định, bê tôn...
Bê tông xi măng là loại vật liệu xây dựng được sản xuất từ các thành phần chính là xi măng, cát, sỏi và nước. Khi pha trộn với nhau theo tỉ lệ nhất định, bê tông xi măng tạo ra một chất liệu cứng, chịu lực tốt và có khả năng chịu được áp lực cao. Nó được sử dụng rộng rãi trong xây dựng các công trình dân dụng, công nghiệp, cầu đường, và hạ tầng giao thông.
Bê tông xi măng có nhiều ứng dụng khác nhau như trải nhựa đường, lát sân, tạo đường dẫn, móng cọc, lát sàn, xây tường, móng nhà, và rất nhiều ứng dụng khác. Việc sử dụng bê tông xi măng giúp nâng cao độ bền và độ cứng của các công trình xây dựng và cung cấp một giải pháp kinh tế cho nhiều mục đích xây dựng khác nhau.
Bê tông xi măng thường được đúc và chưng cất để tạo ra các sản phẩm có hình dạng và kích thước khác nhau. Các sản phẩm bê tông xi măng có thể được sử dụng trực tiếp hoặc gia công thêm để tạo ra các sản phẩm xây dựng chuyên dụng như cột, dầm, block, và nhiều sản phẩm khác.
Ngoài ra, bê tông xi măng cũng có khả năng tái chế nên có thể giúp giảm thiểu tác động đến môi trường thông qua việc sử dụng lại các vật liệu xây dựng cũ để sản xuất bê tông mới.
Bê tông xi măng có thể được tôi luyện để tạo ra các bề mặt cần mài nhẵn hoặc tạo ra các họa tiết trang trí. Nó cũng có khả năng chịu nước tốt, đặc biệt khi thêm vào các phụ gia chống thấm.
Trong quá trình sử dụng, bê tông xi măng cần được bảo dưỡng để duy trì độ bền và thẩm mỹ của công trình. Bảo dưỡng bê tông xi măng thường bao gồm sơn phủ bề mặt để bảo vệ khỏi tác động của môi trường, cũng như làm sạch và kiểm tra định kỳ để phòng tránh việc phá vỡ và xuống cấp.
Với tính chất đa dạng và tính ứng dụng cao, bê tông xi măng đóng vai trò quan trọng trong ngành xây dựng và cơ sở hạ tầng, đồng thời mang lại sự tiện ích và tính bền vững cho các công trình xây dựng.
Nghiên cứu thực nghiệm về bê tông Portland (PCC) có sử dụng vật liệu Asphalt tái chế (RAP) Dịch bởi AI International Journal of Concrete Structures and Materials - Tập 12 - Trang 1-11 - 2018
Việc phục hồi và sửa chữa các mặt đường linh hoạt sản sinh ra một lượng lớn vật liệu Asphalt tái chế (RAP). Sử dụng RAP trong phối trộn bê tông Portland (PCC) là một kỹ thuật thuộc phương pháp phát triển bền vững, vì nó giảm thiểu việc tiêu thụ cốt liệu mới và tái sử dụng một vật liệu được coi là chất thải. Bài báo này mô tả bài thử nghiệm nhiệt lượng nửa cô lập được thực hiện trên một phối trộn bê tông có chứa vật liệu RAP như một loại cốt liệu. Kết quả cho thấy quá trình hydrat hóa xi măng không bị ảnh hưởng bởi sự hiện diện của lớp nhựa đường trên bề mặt của vật liệu RAP. Các thử nghiệm cổ điển (cường độ nén, cường độ uốn và cường độ kéo gián tiếp, mô đun đàn hồi, và sự co tự do) cũng đã được thực hiện trên các phối trộn PCC có chứa các tỷ lệ phần trăm khác nhau của RAP. Kết quả cho thấy khi tỷ lệ phần trăm RAP tăng lên, các tính chất cơ học của PCC giảm xuống. Điều này chủ yếu được cho là do sự hiện diện của các lỗ rỗng trong vùng chuyển tiếp giữa các cốt liệu phủ nhựa đường và lớp ben tông đã hydrat hóa, như được xác nhận bởi hình ảnh kính hiển vi điện tử quét. Thử nghiệm về co tự do cho thấy sự thay đổi về biến dạng co không rõ ràng thống kê với hàm lượng RAP. Kết quả về cường độ và sự co rút dẫn đến kết luận rằng có thể đưa vào 40% RAP trong phối trộn PCC và đạt được các tính chất chấp nhận được cho việc xây dựng mặt đường cứng.
#bê tông Portland #vật liệu asphalt tái chế #hydrat hóa xi măng #tính chất cơ học #phát triển bền vững
Phân tích đồng thời DSC và TG của bê tông hiệu suất cao chứa zeolit thiên nhiên như một vật liệu xi măng bổ sung Dịch bởi AI Journal of Thermal Analysis and Calorimetry - Tập 121 - Trang 67-73 - 2015
Zeolit thiên nhiên là một vật liệu pozzolan hoạt tính được sử dụng như một vật liệu xi măng bổ sung để cải thiện các tính chất cuối cùng của bê tông. Trong bài báo này, các đặc tính nhiệt của bê tông hiệu suất cao đã đông cứng chứa zeolit thiên nhiên với tỷ lệ từ 0 đến 60 % khối lượng của chất kết dính xi măng được nghiên cứu. Sử dụng phép đo nhiệt lượng quét vi phân và nhiệt trọng, quá trình hydrat hóa và phản ứng pozzolan trong bê tông được điều tra phụ thuộc vào lượng zeolit thiên nhiên thêm vào. Cuộc điều tra được thực hiện trong khoảng nhiệt độ từ 25 đến 1000 °C với tốc độ 5 °C/phút trong môi trường khí argon. Chúng tôi phát hiện ra rằng nhiệt độ và enthalpy giải phóng nước liên kết vật lý, gel C–S–H, và sự phân hủy ettringite (tất cả đều xảy ra từ 50 đến 300 °C) hầu như không thay đổi với lượng zeolit thiên nhiên trong các mẫu được nghiên cứu. Ngược lại, đối với portlandite (420–510 °C) và sự phân hủy calcite (580–800 °C), các đặc tính này giảm với lượng zeolit thiên nhiên. Cuối cùng, sự biến đổi cuối cùng ở nhiệt độ khoảng 857 °C được quy cho quá trình tinh thể hóa wollastonite.
#zeolit thiên nhiên #bê tông hiệu suất cao #vật liệu xi măng bổ sung #đo nhiệt lượng quét vi phân #nhiệt trọng học
NGHIÊN CỨU CHẾ TẠO BÊ TÔNG CƯỜNG ĐỘ SIÊU CAO SỬ DỤNG PHỤ GIA KHOÁNG THAY THẾ MỘT PHẦN XI MĂNG Ở VIỆT NAM HƯỚNG TỚI PHÁT TRIỂN BỀN VỮNGTạp chí Khoa học Công nghệ Xây dựng (TCKHCNXD) - ĐHXDHN - Tập 9 Số 2 - Trang 11-18 - 2015
Bê tông cường độ siêu cao (BTCĐSC) đã và đang được nghiên cứu và ứng dụng ở Việt Nam với các tính chất đặc biệt như độ chảy cao, cường độ rất cao, độ thấm nước thấp và độ bền cao. Tuy nhiên, trong BTCĐSC, lượng xi măng sử dụng rất lớn, khoảng 900-1000 kg/m3, điều này sẽ ảnh hưởng lớn đến tính chất, giá thành, và môi trường của sản phẩm. Do vậy, việc nghiên cứu sử dụng phụ gia khoáng thay thế một phần xi măng chế tạo BTCĐSC có ý nghĩa to lớn về mặt kỹ thuật, kinh tế và môi trường, góp phần vào mục tiêu phát triển xây dựng bền vững sản phẩm này. Bài báo này trình bày những kết quả nghiên cứu về việc sử dụng một số phụ gia khoáng sẵn có ở Việt Nam như silica fume, tro bay, tro xỉ, tro trấu, bột đá vôi, cũng như một số tổ hợp phụ gia này trong việc chế tạo BTCĐSC. Kết quả này góp phần quan trọng trong việc phát triển và ứng dụng loại bê tông này trong công nghiệp xây dựng bền vững ở Việt Nam.
Từ khóa: Bê tông cường độ siêu cao; phụ gia khoáng; phát triển bền vững.
Phân tích xác suất nứt do nhiệt của kết cấu trụ cầu trong quá trình nhiệt thủy hóa xi măng bằng mô phỏng sốBài báo trình bày kết quả phân tích xác suất nứt do nhiệt nhiệt trong quá trình nhiệt thủy hóa xi măng được xác định bằng mô phỏng số của kết cấu BTCT khối lớn dạng trụ cầu. Nội dung nghiên cứu có đề cập tới mức độ ảnh hưởng của một số yếu tố tới xác suất nứt do nhiệt này theo phương pháp trên. Kết quả phân tích có thể được sử dụng để dự đoán xác suất nứt do nhiệt phục vụ thiết kế phương án thi công và bảo dưỡng bê tông phù hợp nhằm kiểm soát hiện tượng nứt của kết cấu bê tông cốt thép dạng trụ cầu.
#Bê tông cốt thép khối lớn #Nhiệt thủy hóa xi măng #Xác suất nứt do nhiệ #Phương pháp mô phỏng số
Phân tích xác suất nứt do nhiệt của kết cấu trụ cầu trong quá trình nhiệt thủy hóa xi măng bằng mô phỏng sốTạp chí Vật liệu và Xây dựng - Bộ Xây dựng - - 2023
Bài báo trình bày kết quả phân tích xác suất nứt do nhiệt nhiệt trong quá trình nhiệt thủy hóa xi măng được xác định bằng mô phỏng số của kết cấu BTCT khối lớn dạng trụ cầu. Nội dung nghiên cứu có đề cập tới mức độ ảnh hưởng của một số yếu tố tới xác suất nứt do nhiệt này theo phương pháp trên. Kết quả phân tích có thể được sử dụng để dự đoán xác suất nứt do nhiệt phục vụ thiết kế phương án thi công và bảo dưỡng bê tông phù hợp nhằm kiểm soát hiện tượng nứt của kết cấu bê tông cốt thép dạng trụ cầu.
#Bê tông cốt thép khối lớn #Nhiệt thủy hóa xi măng #Phương pháp mô phỏng số #Xác suất nứt do nhiệt
Nghiên cứu tận dụng thủy tinh phế thải để sản xuất bê tông mác 350Với quá trình đô thị hóa ngày càng nhanh thì nhu cầu về xây dựng không thể tách rời, trong đó xi măng bê tông được xem là vật liệu cần thiết. Tuy nhiên, Việc sản xuất xi măng luôn gắn liền với vấn đề ô nhiễm môi trường do khí thải và do khai thác tài nguyên thiên nhiên. Bên cạnh đó, rác thải thủy tinh cũng gây ra vấn đề báo động về môi trường vì chất thải này không phân hủy được. Do thành phần hóa của thủy tinh chủ yếu là SiO2 vô định hình và nếu được nghiền mịn vật liệu này đóng vai trò hoạt tính pozzolanic, cải tiến đáng kể độ bền của sản phẩm khi đóng rắn. Do đó, nghiên cứu này hướng đến tận dụng thủy tinh phế thải thay thế một phần xi măng trong sản xuất bê tông nhằm hạn chế ô nhiễm môi trường. Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng để đảm bảo được yêu cầu về tính công tác và cường độ của bê tông theo yêu cầu thì hàm lượng thủy tinh thay xi măng tối đa là 25%.
#bê tông #thủy tinh phế thải #xi măng #môi trường #cường độ chịu nén
Ảnh hưởng của hàm lượng tro bay thay thế một phần xi măng đến các tính chất của bê tông cường độ caoNghiên cứu này được thực hiện nhằm mục đích đánh giá khả năng sử dụng nguồn phụ phẩm tro bay từ nhà máy nhiệt điện trong chế tạo bê tông cường độ cao. Ảnh hưởng của hàm lượng tro bay dùng để thay thế một phần xi măng (0 – 50 % với bước tăng 10 %) đến các tính chất kỹ thuật của bê tông cường độ cao đã được nghiên cứu thông qua hệ thống các thí nghiệm bao gồm: đánh giá độ sụt, khối lượng thể tích, cường độ chịu nén, độ hút nước, độ co khô và vận tốc truyền sóng siêu âm. Kết quả thí nghiệm cho thấy tính công tác của hỗn hợp bê tông tăng và độ hút nước của mẫu bê tông cũng tăng tương ứng với hàm lượng tro bay trong cấp phối. Trong khi đó, cường độ chịu nén và vận tốc truyền sóng siêu âm giảm khi tăng hàm lượng tro bay thay thế xi măng. Việc thay thế xi măng bằng tro bay mang lại hiệu quả trong việc làm giảm khối lượng thể tích và độ co khô của bê tông. Các mẫu bê tông trong nghiên cứu này có chất lượng và độ bền tốt với giá trị tốc độ truyền sóng siêu âm ở mức > 4570 m/s. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy có thể thay thế đến 40 % xi măng bằng tro bay trong sản xuất bê tông cường độ cao với giá trị cường độ chịu nén ở 28 ngày tuổi ≥ 55 MPa.
#Bê tông cường độ cao #Tro bay #Độ sụt #Cường độ chịu nén #Độ co khô
Cải thiện bám dính giữa các lớp in 3D bê tông bằng hồ xi măng biến tínhBêtông in 3D là một công nghệ hoàn toàn mới, nó được phát triển nhanh chóng thành một kỹ thuật được sử dụng mang nhiều lợi ích trong ngành xây dựng. Nhưng bên cạnh đó, công nghệbê tông in 3D vẫn tồn tại một vài hạn chế. Trong đó, sự liên kết bám dính giữa hai lớp bê tông 3D được coi là điểm yếu nhất, nguyên nhân chủ yếu do bề mặt tiếp xúc giữa hai lớp bê tông in bị khô và xuất hiện lỗ rỗng trên bề mặt lớp in bê tông, làm ảnh hưởng đến tính chất cơ học. Bài báo này trình bày nghiên cứu nhằm đưa ra một giải pháp cải thiện bám dính giữa các lớp bê tông in 3D bằng cách sử dụng bốn loại hồ xi măng tạo thành một lớp trung gian giữa các lớp bê tông làm tăng cường độ bám dính và giảm thiểu lỗ rỗng. Các đặc trưng về độ chảy, cường độ chịu nén, cường độ kéo đứt thử bám dính nền cũng được đo để khảo sát phân tích sự tương quan đến cường độ bám dính giữa các lớp bê tông để hiểu sâu về cơ chế bám dính. Kết quả cho thấy, mẫu sử dụng phụ gia Sikament R7N cho kết quả cường độ bám dính giữa các lớp bê tông cao nhất. Ngược lại mẫu sử dụng phụ gia Sika Latex TH cho kết quả thấp hơn mẫu đối chứng.
#In 3D bê tông #Độ chảy xòe #Cường độ chịu nén #Cường độ bám dính #Cường độ kéo đứt thử bám dính nền
Nghiên cứu thực nghiệm ảnh hưởng của tỷ lệ nước/ xi măng đến biến dạng co ngót của bê tông trong điều kiện khí hậu Gia LaiBiến dạng co ngót của bê tông trên công trình là một quá trình lâu dài và chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau. Theo một số tác giả [7], [8], những yếu tố chính ảnh hưởng đến biến dạng co ngót gồm tỷ lệ nước/xi măng (tỷ lệ N/X), chủng loại xi măng, thành phần cốt liệu chế tạo bê tông, kích thước kết cấu (đặc biệt là tỷ lệ diện tích/thể tích của kết cấu), điều kiện khí hậu môi trường nơi công trình xây dựng….
Nội dung bài báo trình bày kết quả nghiên cứu thực nghiệm đo đạc biến dạng co ngót của bê tông trong điều kiện khí hậu Gia Lai. Các mẫu thí nghiệm co ngót được chế tạo theo 03 nhóm mẫu (Bê tông thường) có cấp độ bền B25, với các tỷ lệ Nước/Xi măng (N/X) lần lượt là: 0.40, 0.45, 0.50. Các kết quả thí nghiệm thu được cho phép xác định sự phát triển của biến dạng co ngót theo thời gian và ảnh hưởng của tỷ lệ Nước/Xi măng (N/X) đến độ lớn của thành phần biến dạng dài hạn này của bê tông.
#nước biển #bê tông nước biển #tỷ lệ Nước/Xi măng #cường độ bê tông #mô đun đàn hồi
Nghiện công việc ở nhân viên văn phòng Trung Quốc: các thuộc tính tâm lý đo lường và sự đồng mắc của nó với lo âu tổng quát trong phân tích mạng Dịch bởi AI BMC Psychology - Tập 11 Số 1
Tóm tắtNền tảngNghiện công việc (WA) đang đe dọa sức khỏe nghề nghiệp ở nhiều quốc gia, trong đó có Trung Quốc. Nghiên cứu này nhằm đánh giá các thuộc tính tâm lý đo lường của phiên bản tiếng Trung của Thang đo Nghiện Công việc Bergen (BWAS), công cụ phổ biến nhất để đánh giá WA, nhằm tạo điều kiện cho các nghiên cứu liên quan ở công nhân Trung Quốc. Một phân tích mạng cũng được thực hiện để xác định các triệu chứng trung tâm và cầu nối trong mạng lưới WA-lo âu nhằm cải thiện thực hành can thiệp.
Phương phápTổng cộng có 694 nhân viên văn phòng Trung Quốc thực hiện một khảo sát bảng hỏi trực tuyến vào tháng 3 năm 2022, và các phản hồi về BWAS từ một mẫu phụ gồm 50 người tham gia một tháng sau đó cũng được thu thập.
Kết quảTính đơn chiều của BWAS được hỗ trợ bởi kết quả phân tích nhân tố khám phá, phân tích đồ thị khám phá, và phân tích nhân tố khẳng định. Chúng tôi phát hiện độ tin cậy nội bộ đạt yêu cầu và độ ổn định kiểm tra-tái kiểm tra chấp nhận được. Các phân tích nhân tố nhiều nhóm đã xác nhận tính không thay đổi trong đo lường của BWAS giữa các giới tính, các khu vực (tức là, Trung Trung Quốc, Đông Trung Quốc, Tây Trung Quốc, và Đông Bắc Trung Quốc), và các nhóm tuổi (tức là, người trưởng thành trẻ và trung niên), trong khi tính hợp lệ hội tụ của BWAS được chứng minh bằng mối tương quan đáng kể với Thang đo Nghiện Công việc Hà Lan (r = 0.62,p < 0.001) và tính hợp lệ tiêu chuẩn của nó được chỉ ra bởi mối tương quan đáng kể với lo âu tổng quát, số giờ làm việc hàng tuần và tình trạng sức khỏe (r =-0.16 đến 0.31,p < 0.001–0.01). Phân tích mạng cũng đã tiết lộ hai triệu chứng trung tâm (tolerance WA và problems WA) và ba triệu chứng cầu nối (problems WA, mood modification WA, và khô miệng của lo âu tổng quát) duy trì sự đồng mắc WA-lo âu.
Kết luậnNhững phát hiện của chúng tôi cho thấy BWAS là một công cụ đo lường WA hợp lệ ở nhân viên Trung Quốc và các can thiệp nên chú ý đặc biệt đến các triệu chứng trung tâm và triệu chứng cầu nối đã xác định trong mạng lưới WA-lo âu.
#Nghiện công việc #sức khỏe tâm lý #nhân viên văn phòng Trung Quốc #thang đo Bergen #lo âu tổng quát #phân tích mạng